Nhiễm trùng đường tiết niệu hay còn gọi là nhiễm trùng tiểu, xảy ra nhiều ở nữ giới. Đặc biệt là nhiễm trùng tiểu không biến chứng. Do đó lựa chọn một phương pháp điều trị hiệu quả và an toàn rất quan trọng. Hãy cùng xem bài viết dưới đây để biết thêm về thông tin so sánh giữa các phương pháp điều trị UTI không biến chứng hiện nay nhé!
Lên đến 50% phụ nữ sẽ gặp phải nhiễm trùng đường tiết niệu (UTI) trong suốt cuộc đời của họ. Khiến UTI trở thành chỉ định phổ biến thứ ba để điều trị kháng sinh ở Hoa Kỳ, sau nhiễm trùng đường hô hấp và nhiễm trùng da và mô mềm. Các hướng dẫn điều trị được công bố bởi Hội bệnh truyền nhiễm Hoa Kỳ (IDSA) năm 2011 khuyến khích sử dụng nitrofurantoin, trimethoprim-sulfamethoxazole và fosfomycin như là các phương pháp điều trị đầu tay cho UTI không phức tạp dựa trên hiệu quả và hồ sơ tác dụng phụ tương đối ít của chúng.
Fluoroquinolones được xem là một lựa chọn thay thế do xu hướng của chúng trong việc chọn lựa các vi khuẩn kháng thuốc đa dạng và liên quan đến các tác dụng phụ nghiêm trọng, bao gồm viêm ruột do Clostridium difficile. Mặc dù vậy, ciprofloxacin và levofloxacin vẫn là những loại kháng sinh được sử dụng phổ biến nhất trong điều trị UTI, điều này có thể phản ánh mối đe dọa thực tế về kháng thuốc đối với các thuốc đầu tay. Các hướng dẫn liệt kê β-lactams là một phương án thay thế kém hiệu quả hơn vì chúng liên quan đến việc giảm hiệu quả điều trị.
Một phân tích thuần tập hồi cứu bao gồm 57,585 đợt UTI trong số 49,037 bệnh nhân nữ (tuổi trung bình, 51,7 ± 20,1 tuổi) từ năm 2012 đến năm 2021 từ dữ liệu yêu cầu bồi thường của Independence Blue Cross ở Philadelphia.
Những người tham gia là những người phụ nữ không mang thai từ 18 tuổi trở lên được chẩn đoán nhiễm trùng đường tiết niệu không biến chứng, không tái phát tại cơ sở ngoại trú. Bệnh nhân cũng phải được điều trị bằng kháng sinh đầu tay (nitrofurantoin hoặc trimethoprim-sulfamethoxazole), fluoroquinolone (ciprofloxacin, levofloxacin hoặc ofloxacin) hoặc β-lactam đường uống (amoxicillin-clavulanate, cefadroxil hoặc cefpodoxime). Phân tích dữ liệu được thực hiện từ tháng 11 năm 2021 đến tháng 8 năm 2024.
Kháng sinh đầu tay cho thấy hiệu quả vượt trội với chênh lệch nguy cơ tuyệt đối (ARD) nguy cơ tái khám thấp hơn 1,78% (Khoảng Tin Cậy 95%: −2,37% đến −1,06%) cho tái khám trong 30 ngày.
Nguy cơ tiêu chảy thấp hơn (ARD: −0,15%; Khoảng Tin Cậy 95%: −0,27% đến 0,00%).
Nguy cơ tổn thương thận cấp thấp hơn (ARD: −0,35%; Khoảng Tin Cậy 95%: −0,52% đến −0,18%).
Kháng sinh đầu tay cho thấy ARD nguy cơ tái khám thấp hơn là 6,40% (Khoảng Tin Cậy 95%: −10,14% đến −3,24%) cho tái khám trong 30 ngày.
Các tác dụng phụ tương đương giữa các nhóm điều trị, nhưng kháng sinh đầu tay có nguy cơ thấp hơn đối với tiêu chảy và tổn thương thận cấp so với fluoroquinolones.
Kết quả nhất quán khi sử dụng cả hai phương pháp xác định đặc điểm: từ chuyên gia và tự động từ mô hình OMOP. Observational Medical Outcomes Partnership (OMOP): Mô hình dữ liệu chung trong nghiên cứu y khoa.
Nghiên cứu này củng cố tính hiệu quả và an toàn của kháng sinh đầu tay (nitrofurantoin và trimethoprim-sulfamethoxazole) trong điều trị UTI không biến chứng, theo hướng dẫn của Hiệp hội Bệnh Truyền nhiễm Hoa Kỳ (IDSA).
Nitrofurantoin và trimethoprim-sulfamethoxazole vẫn là lựa chọn hàng đầu trừ khi bệnh nhân có tiền sử kháng thuốc, không dung nạp, hoặc sống ở khu vực có tỷ lệ kháng thuốc cao.
Nguồn
Jones NShih MHealey E, et al. Use of Machine Learning to Assess the Management of Uncomplicated Urinary Tract Infection. JAMA Netw Open. 2025;8(1):e2456950. doi:10.1001/jamanetworkopen.2024.56950
Bài viết liên quan